Ngày 21/11, tại Làng văn hóa và du lịch của các dân tộc Việt Nam (hồ Đồng Mô, huyện Sơn Tây, Hà Nội) đã diễn ra sự kiện tái hiện Lễ hội Katê của đồng bào Bà-la-môn và người Chăm.
Katê là một trong những lễ hội dân gian quan trọng và đậm nét nhất của người Chăm hiện nay. Có lẽ, trước đây, Ngày lễ Kate’s là chung của người Chăm thuộc hai cộng đồng tôn giáo. Sau thế kỷ 13, một số người Chăm cải sang đạo Hồi (sau này là người Bani) nên tổ chức Lễ hội Katê theo quy định của tôn giáo. Quá trình bản địa hoá các yếu tố văn hoá, tôn giáo đã hình thành nên hệ thống lễ hội, trong đó có Lễ hội Katê mang đậm phong tục dân gian.
Mục Lục
Tìm hiểu về lễ hội Katê độc đáo của người Chăm
Katê là lễ cúng để tưởng nhớ thần Cha (Ngap padhi phuel bilan Katê sak ka yang po yang Amâ). Còn Cambun là Lễ cúng tưởng nhớ thần Mẹ. Thần Cha thuộc “dương” còn thần Mẹ thuộc “âm”. Nên Katê được tổ chức vào thượng tuần trăng (1 tháng 7 lịch Chăm). Cambun được tổ chức vào hạ tuần trăng (15 tháng 9 lịch Chăm). Đều được tổ chức ở đền/tháp.
Lễ hội Katê được diễn ra trong một không gian rộng lớn; và thời gian kéo dài. Ngày mồng 1 tháng 7 lịch Chăm được gọi là ngày lễ chính tại đền/tháp. Còn Lễ hội Katê kéo dài cả tháng, nên mới có câu “bilan Katê” (tháng Katê). Đến với Lễ hội Katê du khách sẽ được hòa vào đoàn người rước Y trang (của Thần Mẹ xứ sở Pô Inư Nư gar, Vua Pô Klông Garai, Vua Pô Rômê) do người Raglai gìn giữ.
Các lễ chính trong ngày lên tháp ngày 1/7 lịch Chăm
Các lễ chính trong ngày lên tháp (1/7 lịch Chăm) gồm có: Lễ rước y trang lên tháp, lễ mở cửa tháp; lễ mộc dục (tắm tượng và mặc y phục) và cuối cùng là đại lễ (lễ chính). Sau Katê đền/tháp là Katê làng. Các làng chọn ra các ngày thứ tư; hoặc thứ bảy trong tuần để tổ chức đồng thời thông báo cho cả làng biết; và mang bánh trái đến cúng tại nhà làng. Katê làng nhằm để cúng thần làng và tưởng nhớ. Những người có công đối với làng. Sau Katê làng là đến Katê gia đình, dòng tộc. Trước tiên nó được tổ chức trong gia đình nhà Cả sư Po Adhia. Sau đó mới đến các gia đình dòng tộc khác.
Ngày nay, Katê đã trở thành một lễ hội mang đầy đủ tính chất “lễ” và “hội”. Katê không chỉ là một nghi lễ hay lễ hội mà nó đã thực sự trở thành ngày Tết. Đối với đồng bào Chăm nói chung và người Chăm nói riêng
Lễ hội Katê gắn liền với những đền tháp cổ kính – nơi ngưng đọng nét đẹp một thời của nền văn minh Chămpa rực rỡ
Trong khuôn khổ tuần Đại đoàn kết các dân tộc – Di sản văn hóa Việt Nam năm 2020. Làng Văn hóa – du lịch các dân tộc Việt Nam đã tái hiện lễ hội Katê của đồng bào dân tộc Chăm tại Ninh Thuận (Nam Trung Bộ). Lễ hội này được tái hiện nhằm bảo tồn. Gìn giữ bản sắc văn hóa truyền thống từ xa xưa; diễn ra vào tháng 7 lịch Chăm mỗi năm một lần.
Đây là một trong những lễ hội đã tồn tại lâu đời trong lịch sử của người Chăm. Theo đạo Bà la môn, thu hút nhiều người dân và du khách thập phương.
Lễ hội nhằm mục đích tưởng nhớ các vị nam thần như Pô Klong Garai, Pô Rômê, Pô Dam… Và tưởng nhớ ông bà, tổ tiên, trời đất đã phù hộ cho con người.
Lễ hội Katê được điểm tô bởi những bài thánh ca
Lễ hội Katê được điểm tô bởi những bài thánh ca, những điệu múa dân gian hòa trong nền nhạc khi trầm khi bổng của đàn Kanhi, rộn ràng với tiếng trống Ginăng – Baranưng, thanh cao réo rắt của kèn Saranai và huyền bí của tiếng tù và…
Katê cũng là nơi hẹn hò của các đôi trai gái. Là nơi khoe sắc phục truyền thống lung linh sắc màu. Không gian Katê thường rộng, thoáng, trang trọng và rực rỡ sắc màu.
Lễ Katê của đồng bào Chăm gồm lễ rước y trang (Rauk khan aw pô Yang), lễ mở cửa tháp (Pơh băng yang), lễ tắm tượng thần (Mưnay Yang), lễ mặc y trang cho thần (Angui khan aw Yang) và đại lễ (Mưliêng Yang).
Kết thúc phần đại lễ, những điệu trống ghinăng, kèn saranai cùng vang lên.Các vũ nữ sẽ biểu diễn múa dâng ngày hội. Tiếng trống hội Katê, các điệu mùa múa quạt truyền thống của người Chăm sẽ khiến du khách lần đầu tham dự thích thú.
Đồng bào người Chăm còn có các nghi lễ truyền thống tại 3 khu vực đền, tháp Chăm thuộc tỉnh Ninh Thuận là lễ Rija Nưgar, lễ Chabun, lễ Cầu đảo…