Một trong số các yếu tố thuộc về văn hóa đời sống của con người ở hầu hết các quốc gia đều có đó chính là về tín ngưỡng. Nó gắn liền với những gì thuộc về niềm tin, tinh thần đi theo con người suốt nhiều thế hệ. Đối với quốc gia như Việt Nam chúng ta, một nước có nông nghiệp phát triển và còn đông anh em các dân tộc thì những tín ngưỡng tâm linh cũng vì thế càng đa dạng và phong phú hơn bao giờ hết. Các loại tín ngưỡng dân gian này sẽ tác động đến tập quán, lối sống của con người sống tại khu vực đó.
Vậy hiện nay nước ta đang có những loại tín ngưỡng dân gian nào? Đặc điểm của mỗi loại là gì và chúng khác tôn giáo ra sao? Hãy cùng betylee tìm hiểu chủ đề thú vị này trong bài viết ngay dưới đây.
Mục Lục
Tín ngưỡng dân gian là gì?
Tín ngưỡng dân gian là tập hợp những niềm tin hình thành và phản ánh ước nguyện của một cộng đồng người. Tuy nhiên, những tín ngưỡng này không nhất định thành tổ chức tôn giáo.
Các tín ngưỡng này dựa trên các quan niệm nhân gian. Con người tin vào thần linh, có thể là linh hồn người chết, cây cối, con vật hay bất kì thứ gì trong tự nhiên. Từ sự sợ hãi với thiên nhiên, dần người ta sinh ra sự sùng bái và tin tưởng, tín ngưỡng dân gian hình thành.
Không phải tín ngưỡng nào cũng giống nhau. Phụ thuộc vào tập quán sinh hoạt, thói quen hay quan niệm từng vùng miền sẽ ảnh hưởng tới tín ngưỡng vùng đó. Ví dụ, những người nông dân Bắc Bộ xưa tin thờ Thành Hoàng Làng. Hay vùng Sóc Sơn thờ Thánh Gióng như một vị anh hùng, ông tổ nghề. Dù không có tổ chức nhất định nhưng số lượng người tin theo tín ngưỡng dân gian lại chiếm đa số.
Các loại hình tín ngưỡng dân gian ở nước ta
Tín ngưỡng phồn thực
Khởi phát từ sự sanh sôi nảy nở của hoa màu, con người thời bấy giờ có những lễ hội cúng hiến phẩm vật. Về con người, con cháu đông đúc cũng là một quà tặng của tạo hóa, vì thế họ thờ Linga và Yoni biểu tượng cho sự sung mãn phát triển. Không riêng Việt Nam, Ấn Độ và một vài nước vẫn có tục lệ thờ cúng vụ mùa và thờ cúng dương vật.
Tín ngưỡng tam phủ – tứ phủ
Phủ là đền thờ ba vị: Mẫu Thượng Thiện – Mẫu Thượng Ngàn – Mẫu Thoải.
Mẫu Thượng Thiện biểu tượng cho mẹ Trời, mẫu Thượng Ngàn biểu tượng mẹ cai quản núi rừng, mẫu Thoải biểu tượng mẹ cai quản sông nước. Sau đó người dân thêm vào Mẫu Địa phủ cai quản đất đai trên cõi dương và dưới cõi âm. Từ đó có Tứ phủ. Loại tín ngưỡng nầy khởi xuất từ cuộc sống nông nghiệp của dân ta. Về sau, khi tiếp biến văn hóa Trung Quốc, người dân thờ thêm Thổ công, Hà Bá và Ngọc Hoàng
Thượng đế. Ngoài ra, xã hội nhà nông còn tôn thờ Mây-mưa-sấm-chớp. Đến khi tiếp nhận tín ngưỡng Đạo Phật, tín ngưỡng nhân gian đó được cải biến dưới dạng tứ pháp:
- Pháp Vân (thần mây) thờ ở chùa Bà Dâu
- Pháp Vũ (thần mưa) thờ ở chùa Bà Đậu
- Pháp Lôi (thần sấm) thờ ở chùa Bà Tướng
- Pháp Điện (thần chớp) thờ ở chùa Bà Dàn
Được cai quản chung bởi Phật Mẫu Man nương. Đời nhà Lý đã biến tín ngưỡng Tứ pháp thành Tứ Khí thờ ở chùa Pháp Vân tại Hưng Yên. Theo tục lệ dân làng, mỗi khi hạn hán, cần mưa cho vụ mùa, họ đón tượng Pháp Vân, ra khỏi chùa, cùng với tượng của các bà Pháp Lôi, Pháp Vũ ở các chùa gần đó đến chùa Ôn Xá (được gọi là chùa Un) – nơi thờ bà Pháp Điện để làm lễ cầu mưa.
Các tín ngưỡng sùng bái con người, động vật hay thực vật
Thờ cúng tổ tiên
Quan niệm nhân gian, ngoài thể xác, con người có hồn và vía. Hồn là Tinh-khí-thần, nên gọi là ba hồn. Vía là các khiếu, nam có bảy, nữ có chín. Tục gọi là ba hồn bảy vía mỗi khi cầu khấn. Do quan niệm nầy mà người chết được cúng kiến, đốt vàng mã, những nhu cầu lúc còn sống để phần hồn được thụ hưởng nơi cõi âm. Vì vậy mà người quá cố được cúng giỗ hàng năm, cho dù tổ tiên vạn đại lâu đời cũng được bái thỉnh vào giáp tết gọi là cúng rước ông bà về đoàn tụ với cháu con trong ba ngày tết.
Tri ân người quá cố là tập quán đạo đức của người xưa. Đó là nét đẹp văn hóa tình người. Nhưng trong Phật giáo nguyên thủy quan niệm người chết sẽ đầu thai chứ không còn ở cõi âm, nhưng tập tục tín ngưỡng nhân gian thì ông bà cha mẹ trên cao, tồn tại ở cõi Thần Tiên thượng giới. Do vậy mà sùng bái cúng kiến thờ phượng được duy trì. Đó là đạo thờ ông bà
Tùy vào hoàn cảnh của mỗi gia đình, bàn thờ tổ tiên được bài trí khác nhau. Trên bàn thờ có chân dung người đã khuất, bát nhang, lọ hoa, đèn, gia đình khá giả thì có thêm đỉnh thờ. Người Việt rất coi trọng ngày giỗ ông bà. Đây cũng được xem như thước đo của lòng hiếu thảo, đoàn tụ, giữ gìn dòng họ. Chính vì vậy mà Nguyễn Đình Chiểu đã viết:
“Thà đui mà giữ đạo nhà
Còn hơn sáng mắt cha ông không thờ”
Thờ tổ nghề (tổ nghiệp)
Ngoài ra, nghề nghiệp đều có Tổ, gọi là Tổ nghề. Tổ nghề là người đầu tiên sáng lập một nghề, người đời sau nhớ ơn nên chọn ngày để cúng hàng năm. Đàn ca hát xướng, may vá, đánh bắt, thợ mộc, thợ nề, mọi nghiệp vụ đều có Tổ. Tuy không trở thành một tín ngưỡng chuyên biệt rộng rãi, chỉ trong phạm vi nghề nghiệp chuyên môn. Nhưng đó cũng là đức tin của kẻ hậu học
Hàng năm, có một ngày giỗ tổ sư là tổ nghề nghiệp. Người cùng nghề thường tập trung ở đền thờ chung hay ở cơ sở sản xuất, gia đình… bày bàn làm giỗ. Việc thờ cúng mang ý nghĩa nhớ ơn người khai sáng ra nghề nghiệp, đồng thời cầu xin tổ nghiệp phù hộ tay nghề ngày càng dày dặn, đông khách hàng.
Thờ các vị thần linh
Thành hoàng thổ địa cũng thuộc loại tín ngưỡng tôn thờ vị cai quản làng xã về họa phúc cho mỗi làng; thường là những người có công, có tiếng, có địa vị tại địa phương. Những bậc minh quân, chiến sĩ trận vong hy sinh cho đất nước cũng được tôn thờ như Thần. Vua cũng được tôn thờ như vua Hùng. được xem là vua tổ đầu tiên của người Việt. Cũng có những vị được xem là Thánh đi vào tín sử của người Việt. Ví dụ như: bốn vị thánh bất tử (Tản Viên, Thánh Gióng, Chữ Đồng Tử và Liễu Hạnh) gọi là “Tứ Bất Tử”.
Cô hồn hoạnh tử cũng được người dân bái vọng cúng kính. Điều này xuất phát do tình thương đối với những vong linh không ai thờ cúng. Người dân thường lập khánh thờ cô hồn ngoài vỉa hè, chốn hoang vu hay những nơi thường xảy ra tai nạn giao thông.
Thờ phụng các loại linh vật
Ngoài ra, còn tùy thuộc ngành nghề phát sanh một số tín ngưỡng khác như ngư dân thờ “Ông”. Truyền tích từ thời vua Gia Long bị quân Tây Sơn truy sát, chạy ra biển gặp sóng to gió lớn, bỗng cá ông xuất hiện đưa thuyền vào bờ an toàn, sau đó Gia Long truy tặng cá ông là “Nam Hải đại tướng quân”.
Ngư dân trước khi xuất bến thường đến cúng vái “Ông” hoặc xin keo. Hàng năm ngư dân thường cúng giỗ Ông vào ngày 20 tháng chạp âm lịch tại lăng thờ Ông ở làng Thanh Thủy
Sự khác biệt giữa tín ngưỡng với tôn giáo
Tín ngưỡng dân gian là sự khát vọng, tôn kính một nhân vật liên hệ trực tiếp đến nhu cầu trần tục. Nhân vật đó có thể là hiện thực, có thể là siêu nhiên đủ đáp ứng niềm an ổn của sự mong cầu. Tín ngưỡng nhân gian không có tổ chức hệ thống chặt chẽ như tôn giáo. Nhưng nó vẫn được lưu truyền lâu dài song hành với tôn giáo.
Tôn giáo nói chung, Phật giáo nói riêng, có hệ thống giáo lý, có giới luật. Có giáo hội, có cơ sở đào tạo giáo dục tu sĩ, cán bộ đạo sự. Có sự liên hệ chặt chẽ giữa con người và đấng giáo chủ thông qua tín điều, giáo điều, đạo lý… Còn tín ngưỡng nhân gian là một huyền thoại, thần tích, truyền thuyết gắn liền với đời sống trần tục.
Tín ngưỡng cần hiểu về tôn giáo để hướng đến chánh tín
Đạo Phật không phủ nhận những hình thức tín ngưỡng dân gian. Nhưng giải trình theo quan điểm Nhân Quả, nghiệp báo để hướng người dân trở về chánh tín. Tuy nhiên, một số chùa do các sư thiếu nội hàm và kiến thức Phật học, nên tùy thuận chúng sanh theo hình thức mê tín càng đưa đạo Phật vào chỗ hỗn dung tín ngưỡng.
Riêng Phật giáo Nguyên Thủy vẫn giữ được nét truyền thống nên tín ngưỡng nhân gian khó thâm nhập. Phật giáo Phát Triển do bao dung thích ứng với mọi nét văn hóa nên dung nạp quá nhiều hình thái tín ngưỡng dân gian mà không chuyển hóa. Dưới cái nhìn của ngoại cuộc, Phật giáo Việt Nam theo phái Phát Triển có màu sắc mê tín.
Thật ra, những hình thái tín ngưỡng dân gian chỉ để đáp ứng nhu cầu thực dụng. Mà nó lại không giải quyết tận căn những nguyên nhân khổ đau của kiếp sống. Đáp ứng được nhu cầu thực dụng hay không là chuyện khác, còn tùy phước báu nhân quả.